KpopNhóm nhạc nam Hàn QuốcTiểu sử nhóm nhạc TVXQ và Thông Tin Profiles 2 thành viên...

Tiểu sử nhóm nhạc TVXQ và Thông Tin Profiles 2 thành viên TVXQ

TVXQ cũng là một trong những nhóm nhạc nam đình đám trực thuộc công ty SM Entertainment. Mặc dù hiện tại nhóm chỉ hoạt động với hai thành viên nhưng đã phát hành rất nhiều sản phẩm âm nhạc hấp dẫn và đầy chất lượng. Để tìm hiểu chi tiết hơn về nhóm nhạc này, hãy cùng chúng tôi đọc ngay bài viết dưới đây nhé!

Mục lục

Tiểu sử nhóm nhạc TVXQ

TVXQ hay còn được gọi là DBSK là nhóm nhạc nam Hàn Quốc trực thuộc công ty SM Entertainment và chính thức Debut vào ngày 26/12/2003 với đĩa đơn đầu tay tên “Hug”. Nhóm còn được định hướng xây dựng theo mô hình F2 của HOT sau khi nhóm nhạc tiền bối này tan rã. Vào năm 2005, nhóm được giới thiệu tại thị trường Nhật Bản dưới tên Tohoshinki (東方神起) thuộc sự quản lý của công ty chủ quản là Rhythm Zone là công ty con của Avex. Ban đầu, nhóm a mắt với 05 thành viên gồm trưởng nhóm U-Know Yunho, Hero Jaejoong, Xiah Junsu, Max Changmin và Micky Yoochun. Tuy nhiên, tranh chấp pháp lý giữa JaeJoong, Yoochun và JunSu với công ty quản lý SM Entertainment xảy ra vào tháng 07/2009 đã buộc nhóm phải ngừng tất cả các hoạt động và dẫn tới sự rời nhóm của ba thành viên. 

Nhóm hiện hoạt động với đôi hình hai thành viên gồm Yunho và ChangminNhóm hiện hoạt động với đôi hình hai thành viên gồm Yunho và Changmin

Cuối cùng, sau hai năm ba tháng gián đoạn, nhóm đã quay trở lại với Album thứ 05 “Keep Your Head Down” với đội hình hai thành viên gồm Yunho và Changmin. Bài hát này nhanh chóng leo lên đứng đầu Gaon Chart chỉ trong hai tuần sau khi phát hành và cũng cho thấy sự ủng hộ, mong chờ lớn của người hâm mộ. Phong cách của nhóm là sự hoà trộn của nhiều thể loại âm nhạc như Pop, R&B, Dance và Acapella. Tuy nhiên, phong cách âm nhạc của nhóm cũng đã được cải thiện qua những năm sau khi mà Yunho và Changmin thử nghiệm dòng nhạc điện tử, R&B truyền thống và nhạc Pop mang hơi hướng Hip-Hop. Tae Jin-Ah là ca sĩ Ballad huyền thoại tại Hàn Quốc đã nhận định rằng “Sẽ không bao giờ có thể tìm được một nhóm nhạc nào khác hoàn hảo như TVXQ”.

1. Ý nghĩa tên nhóm TVXQ

TVXQ được biết đến là tên gọi quốc tế của nhóm nhạc Hàn nổi tiếng DBSK. “TVXQ” có nghĩa là “Rising Gods of the East”  tức “Các vị thần phương Đông”. Tên nhóm là ý nghĩa từ cách phát âm theo phiên âm tiếng Trung “Tong Fang Xien Qi” tức “Đông Phương Thần Khởi” mang ý nghĩa “Những vị thần trỗi dậy từ phương Đông”. Ở Hàn Quốc, nhóm được biết đến nhiều hơn với cái tên “Dong Bang Shin Ki (동방신기)” được ghép từ các chữ cái đầu trong tên tiếng Hàn của nhóm viết tắt là DBSK.

2. TVXQ Fandom “Cassiopeia” và “BigEast”

TVXQ có hai Fanclub chính thức gồm ở Hàn Quốc là “Cassiopeia” và ở Nhật Bản là “BigEast”. Tên Fandom “Cassiopeia” tức tên một chòm sao luôn tỏa sáng mang ý nghĩa “Dù cho nhóm có ở đâu, Fan vẫn sẽ luôn bên cạnh ủng hộ và theo dõi nhóm”. Ngoài ra, “Cassiopeia” còn là một trong những Fandom lớn nhất của K-Pop.

3. Lightstick TVXQ và màu sắc đại diện

Mới đây, công ty SM Entertainment đã công bố hình dáng của Lightstick dành cho Fandom của nhóm. Thiết kế của Lightstick có hình trụ và trên đầu có hình ngôi sao. Ngoài ra, do màu chính thức của nhóm là đỏ nên tông màu chủ đạo của Lightstick cũng theo màu này. Sau khi được công bố, đông đảo cư dân mạng nhận xét ngôi sao trên đầu của Lightstick khiến họ nghĩ ngay đến biểu tượng ngôi sao đỏ nổi tiếng của thương hiệu bia Heineken. Mặc dù Netizen không cho rằng công ty SM Entertainment và TVXQ đạo nhái nhưng mỗi khi nhìn Lightstick thì người hâm mộ đều không khỏi phì cười vì hình dạng của Lightstick khá hài hước.

Thiết kế của Lightstick TVXQ hình trụ, trên đầu có hình ngôi sao và tông màu đỏ chủ đạoThiết kế của Lightstick TVXQ hình trụ, trên đầu có hình ngôi sao và tông màu đỏ chủ đạo

Kênh SNS chính thức của nhóm TVXQ

Các kênh SNS chính thức của TVXQ giúp người hâm mộ có thể cập nhật thông tin một cách nhanh chóng, chuẩn xác và thưởng thức các sản phẩm âm nhạc của nhóm. Cụ thể:

Thông tin 2 thành viên TVXQ

Mặc dù hiện tại TVXQ chỉ hoạt động với hai thành viên nhưng vẫn luôn nhận được sự yêu mến và ủng hộ đến từ người hâm mộ. Cụ thể:

1. U-Know

U-Know tên thật là Jung YunHo (정윤호) sinh ngày 06/02/1986 tại Gwangju, Hàn Quốc. Gia đình của anh chàng gồm bố, mẹ và em gái. Anh từng ước mơ trở thành một công tố viên nhưng sau khi cùng một vài người bạn trong lớp thành lập nhóm nhảy “A+” vào năm trung học và bắt đầu biểu diễn tại một vài cuộc thi nhảy trên cả nước. Từ đó, U-Know bắt đầu nuôi ước mơ trở thành một ca sĩ, nhạc sĩ và vũ công. Anh chàng còn có một tuổi thơ khá êm đềm cho đến năm anh 11 tuổi thì gia đình anh gặp khó khăn về tài chính trong cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1997. Khi ấy, vì hoàn cảnh gia đình quá khó khăn nên gia đình anh đã phản đối ước mơ trở thành ca sĩ của anh. 

Sau đó, U-Know đã rất cố gắng thuyết phục gia đình ủng hộ ước mơ của mình. Trong thời gian làm thực tập sinh tại công ty SM Entertainment, anh chàng thường phải ngủ qua đêm ở trong những trạm ga xe lửa và phải dùng những giấy báo cũ để làm chăn giữ ấm, nệm. Không những thế, anh đã phải đi làm thêm giờ để kiếm tiền phụ giúp gia đình và làm rất nhiều công việc vất vả khác khi lên Seoul để vừa đi học vừa đi làm. Theo như anh mô tả thì nghệ danh của anh thể hiện sự yêu mến, tin yêu mà Fan hâm mộ đã dành cho anh trong suốt thời gian làm trưởng nhóm của nhóm nhạc TVXQ huyền thoại. 

U-Know YunhoU-Know Yunho

Ban đầu, U-Know được tuyển thẳng vào trường Đại học Kyunghee với thành tích học tập xuất sắc từ thời học cấp 3 và theo nguyện vọng của gia đình. Tuy nhiên, anh chàng đã chọn theo học tại trường Đại học Myongji và tốt nghiệp vào năm 2011. Sau đó, U-Know tiếp tục nhận được tấm bằng thạc sĩ từ trường Đại học Chungwoon. Dưới đây là bảng tóm tắt tiểu sử, hồ sơ của U-Know TVXQ:

✅ Tên thật: ⭐ Jung YunHo (정윤호)
✅ Nghệ danh: ⭐ U-Know
✅ Ngày sinh: ⭐ 06/02/1986
✅ Cung hoàng đạo: ⭐ Bảo Bình
✅ Quốc tịch: ⭐ Hàn Quốc
✅ Quê hương: ⭐ Gwangju, Hàn Quốc
✅ Vị trí: ⭐ Leader, Main Rapper, Main Dancer, Vocalist, Center
✅ Chiều cao: ⭐ 184cm
✅ Cân nặng: ⭐ 66kg
✅ Nhóm máu: ⭐ A
✅ Gia đình: ⭐ Bố, mẹ và em gái

2. Changmin

Max tên thật là Shim Changmin (심창민) sinh ngày 18/02/1988 tại Seoul, Hàn Quốc. Anh chàng lớn lên trong một gia đình theo đạo Phật gồm bố và mẹ đều là giáo viên và hai em gái. Vào năm 14 tuổi, anh được một nhân viên của công ty SM Entertainment phát hiện trong khi đang chơi cầu lông ở dưới sân trường. Người này đã đuổi theo Changmin và mời anh tới buổi thử giọng nhưng anh đã từ chối vì sợ bị lừa đảo. Sau đó, anh chàng trở về nhà và kể lại chuyện này với mẹ. Mẹ của anh muốn có cơ hội được gặp nữ ca sĩ BoA nên bà đã dẫn anh đi thử giọng và giấu bố anh chuyện này. Tại buổi thử giọng, Changmin chỉ hát một bài hát cũ và vỗ tay kiểu quân đội. Tuy nhiên, anh chàng đã xuất sắc giành được giải nhất tại cuộc thi Tìm kiếm tài năng trẻ lần thứ 06 của SM. 

ChangminChangmin

Ba ngày sau cuộc thi, công ty SM Entertainment đã liên lạc với anh để ký hợp đồng. Changmin tốt nghiệp trường trung học Gaepo năm 2006 và được tuyển thẳng vào khoa Y học cổ truyền, Đại học Kyung Hee. Vào năm 2009, anh chàng ghi danh vào chuyên ngành Âm nhạc hậu hiện đại cũng của trường này. Anh theo học văn bằng 2 ngành Phim và Kịch nghệ tại Đại học Konkuk vào năm 2011. Changmin học tiếp văn bằng thạc sĩ của Đại học Inha. Ngoài ra, anh chàng cũng có niềm say mê với nhiếp ảnh và là học trò của nhiếp ảnh gia Kim Young-joon. Dưới đây là bảng tóm tắt tiểu sử, hồ sơ của Changmin TVXQ:

✅ Tên thật: ⭐ Shim Changmin (심창민)
✅ Nghệ danh: ⭐ Max
✅ Ngày sinh: ⭐ 18/02/1988
✅ Cung hoàng đạo: ⭐ Bảo Bình
✅ Quốc tịch: ⭐ Hàn Quốc
✅ Quê hương: ⭐ Seoul, Hàn Quốc
✅ Vị trí: ⭐ Main Vocalist, Maknae
✅ Chiều cao: ⭐ 186cm
✅ Cân nặng: ⭐ 61kg
✅ Nhóm máu: ⭐ B
✅ Gia đình: ⭐ Bố, mẹ và hai em gái

3. Cựu thành viên JaeJoong

Hero tên thật là Kim JaeJoong (김재중) sinh ngày 26/01/1986 tại Gongju, Chungcheongnam-do, Hàn Quốc. Ban đầu, sinh nhật của anh chàng được mẹ ruột tiết lộ là ngày 04/02/1986 nhưng anh đã khẳng định rằng ngày sinh nhật của anh mới là 26/01/1986. Anh được một gia đình họ Kim nhận nuôi từ khi còn nhỏ nên đã đổi tên mình là Kim Jaejoong. Vào năm 16 tuổi, JaeJoong quyết tâm rời quê hương để lên Seoul thực hiện ước mơ làm ca sĩ của mình. Cuộc sống của anh chàng tại Seoul khi đó cực kỳ khó khăn vì anh thường xuyên bị chủ nhà đe dọa đuổi ra khỏi nhà nếu không thanh toán đủ tiền phòng trọ. 

Để có thể kiếm được 150.000 Won trả tiền thuê nhà, anh đã phải làm nhiều công việc khác nhau. Trong đó, có cả việc đóng vai một anh lính trong một đội quân đông đến 100.000 người trong một bộ phim bom tấn “Taegeukgi Hwinallimyeo (태극기 휘날리며)” và phải đi bán kẹo cao su ở ga tàu điện ngầm. Khi bán kẹo, gương mặt của anh trông giống những đứa trẻ phải lao động từ rất sớm nên khiến một số người lầm tưởng anh là một kẻ trộm cắp và đối xử rất tệ với anh. 

Cựu thành viên JaeJoongCựu thành viên JaeJoong

JaeJoong luôn mong muốn bán được hết số kẹo và có lần vì tuyệt vọng nên anh đã quyết định vào làm một nhân viên siêu thị. Một người phụ nữ làm việc tại đây vì thương cảm cho anh chàng nên đã mua hết số kẹo và khuyên anh không nên đi bán kẹo kèm theo 150.000 Won cho anh. Sau này, Jaejoong chia sẻ rằng “Kể từ ngày hôm đó, tôi đã hạ quyết tâm cố gắng nhiều hơn nữa để có thể biến giấc mơ của tôi thành hiện thực”. JaeJoong tham gia thử giọng tại công ty SM Entertainment vào năm 2001 và chính thức trở thành thực tập sinh. Dưới đây là bảng tóm tắt tiểu sử, hồ sơ của JaeJoong TVXQ:

✅ Tên thật: ⭐ Kim JaeJoong (김재중)
✅ Nghệ danh: ⭐ Hero
✅ Ngày sinh: ⭐ 26/01/1986
✅ Cung hoàng đạo: ⭐ Bảo Bình
✅ Quốc tịch: ⭐ Hàn Quốc
✅ Quê hương: ⭐ Gongju, Chungcheongnam-do, Hàn Quốc
✅ Vị trí: ⭐ Main Vocalist, Visual, Face of the Group
✅Chiều cao: ⭐ 180cm
✅ Cân nặng: ⭐ 63kg
✅ Nhóm máu: ⭐ O
✅ Gia đình: ⭐ –

4. Cựu thành viên Yoochun

Micky tên thật là Park Yoochun (박유천) sinh ngày 04/06/1986 tại Seoul, Hàn Quốc. Gia đình của anh chàng gồm bố, mẹ và em trai. Anh theo gia đình sang Hoa Kỳ sinh sống tại Fairfax, Virginia vào năm lớp 06. Yoochun theo học tại trường sơ trung Holmes Middle ở Fairfax và trường trung học Chantilly. Khi đó là khoảng thời gian anh chàng gặp nhiều khó khăn trong học tập khi thường xuyên bị bạn bè trêu chọc, bắt nạt vì là người gốc Á. Ngoài ra, anh cũng đã trải qua những năm thơ ấu của mình ở Hàn Quốc trước khi chuyển đến sống ở Virginia, Mỹ vào năm 1998. Bố và mẹ của Yoochun đã ly hôn và anh cùng với em trai tên Yoo-hwan sống với mẹ. 

Từ đó, anh chàng phải gánh luôn cả trách nhiệm làm bố vừa đi làm kiếm tiền và vừa phải chăm sóc Yoo-hwan những lúc mẹ không có nhà. Anh đã trở thành trụ cột chính trong gia đình. Sau này, Yoochun tiết kiệm tiền, mua được Keyboard và bắt đầu tự học chơi Piano. Tài năng ca hát của anh chàng được phát hiện khi tham gia vào cuộc thi hát “American Singing Competition” ở Virginia và xuất sắc giành giải nhất. Sau đó, anh bay về Hàn Quốc để tham gia thử giọng cho công ty SM Entertainment và chính thức trở thành thực tập sinh. 

Cựu thành viên YoochunCựu thành viên Yoochun

Yoochun cũng đã tham gia một cuộc thi hát dành cho tuổi Teen tên “KBN” vào năm 2003 và đã giành giải khuyến khích. Anh chàng được phát hiện bởi công ty Brothers Entertainment và trở về Hàn Quốc để gia nhập công ty SM Entertainment. Em trai Park Yoo-hwan sau này cũng trở thành ca sĩ và diễn viên. Yoochun tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2007 cùng với các thành viên Kim Junsu và Kim Jaejoong. Anh chàng cũng từng theo học tại trường đại học Kyunghee Cyber. Vào ngày 23/04/2019, công ty chủ quản C-Jes Entertainment chấm dứt hợp đồng đại diện với anh.  Dưới đây là bảng tóm tắt tiểu sử, hồ sơ của Yoochun TVXQ:

✅ Tên thật: ⭐ Park Yoochun (박유천)
✅ Nghệ danh: ⭐ Micky
✅ Ngày sinh: ⭐ 04/06/1986
✅ Cung hoàng đạo: ⭐ Song Tử
✅ Quốc tịch: ⭐ Hàn Quốc
✅ Quê hương: ⭐ Seoul, Hàn Quốc
✅ Vị trí: ⭐ Main Rapper, Lead Vocalist
✅ Chiều cao: ⭐ 180cm
✅ Cân nặng: ⭐ 60kg
✅ Nhóm máu: ⭐ O
✅ Gia đình: ⭐ Bố, mẹ và em trai

5. Cựu thành viên Junsu

XIA (시아) tên thật là Kim Junsu (김준수)/Jin Jun Xiu (金俊秀) sinh ngày 15/12/1986 nhưng bố mẹ anh đã đăng ký vào ngày 01/01/1987 tại Kyunggi-do, Hàn Quốc. Anh chàng còn có một người anh trai song sinh tên Kim Jun-ho (Kim Tuấn Hào) là một nam ca sĩ hoạt động chủ yếu tại Nhật Bản và Trung Quốc với nghệ danh “Juno” hay “Zuno”. Anh học tại trường Tiểu học Neunggok, Trung học cơ sở Neunggok, Trung học phổ thông Hwasu và chuyển sang Trung học phổ thông Hanam. Junsu còn tốt nghiệp Trung học phổ thông cùng thành viên Park Yoo-chun năm 2007. Sau đó, anh chàng học chuyên ngành Điện ảnh và Nhạc kịch tại Đại học Myongji tốt nghiệp năm 2011. Dưới đây là bảng tóm tắt tiểu sử, hồ sơ của Junsu TVXQ:

✅ Tên thật: ⭐ Kim Junsu (김준수)/Jin Jun Xiu (金俊秀)
✅ Nghệ danh: ⭐ XIA (시아)
✅ Ngày sinh: ⭐ 15/12/1986 nhưng bố mẹ anh đăng ký vào ngày 01/01/1987
✅ Cung hoàng đạo: ⭐ Nhân Mã
✅ Quốc tịch: ⭐ Hàn Quốc
✅ Quê hương: ⭐ Kyunggi-do, Hàn Quốc
✅ Vị trí: ⭐ Lead Vocalist, Lead Dancer
✅ Chiều cao: ⭐ 177cm
✅ Cân nặng: ⭐ 60kg
✅ Nhóm máu: ⭐ B
✅ Gia đình: ⭐ Bố, mẹ và anh trai sinh đôi

Cựu thành viên JunsuCựu thành viên Junsu

Tổng hợp các Album & MV của nhóm TVXQ

Nhóm nhạc đã cho ra mắt rất nhiều sản phẩm âm nhạc không chỉ tại thị trường Hàn Quốc mà còn ở Nhật Bản. Cụ thể:

1. Đĩa đơn: “Hug” – Ngày 14/01/2004

“Hug” là đĩa đơn đầu tay của nhóm nhạc TVXQ do Yoon Jung, Park Chang-hyun viết kịch bản và Park Chang-hyun sản xuất. “Hug” lần đầu tiên được trình diễn tại buổi giới thiệu chung có sự góp mặt của người đồng nghiệp cùng công ty BoA và ca sĩ người Mỹ Britney Spears vào ngày 26/12/2003 cũng là ngày ra mắt chính thức của nhóm. Sau đó, đĩa đơn được phát hành dưới dạng đĩa đơn CD Maxi vào ngày 14/01/2004 tại Hàn Quốc. Video âm nhạc đi kèm của đĩa đơn được quay vào tháng 12/2003 tại Ilsan Art House. Bài hát quảng cáo tiếp theo tên “My Little Princess” được viết bởi Hwang Sung-jae.

Nhóm đã phát hành phiên bản tiếng Anh của “Hug” dưới tên Tohoshinki và dưới dạng đĩa đơn CD, DVD tại Nhật Bản vào ngày 25/11/2004. Phiên bản tiếng Nhật của “Hug” cũng được giới thiệu trong Album tiếng Nhật đầu tay của nhóm “Heart, Mind and Soul” (2006). Phiên bản tiếng Quan Thoại của “Hug” được phát hành vào tháng 05/2007. Sau khi phát hành, đĩa đơn ra mắt ở vị trí thứ 37 trên bảng xếp hạng MIAK và chỉ bán được 4.630 bản trong tháng đầu tiên phát hành. Vào ngày 28/03/2004, nhóm đã giành được giải thưởng chương trình âm nhạc đầu tiên với “Hug” trên “The Music Trend”. 

Đĩa đơn: “Hug” - Ngày 14/01/2004Đĩa đơn: “Hug” – Ngày 14/01/2004

Theo MIAK, “Hug” còn đạt vị trí thứ 04 vào tháng 04 và tháng 05/2004 khi bán được tổng cộng 56.543 bản. Ngoài ra, đĩa đơn cũng trụ vững trong bảng xếp hạng trong 10 tháng liên tiếp và đến cuối năm 2004, “Hug” đã bán được hơn 169.000 bản. Đây là đĩa hát bán chạy thứ 14 của Hàn Quốc trong năm 2004. “Hug” đã bán được 242.890 bản tính đến năm 2014. Tại Nhật Bản, đĩa đơn còn bán được 4.710 bản. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

2. Mini Album: “The Christmas Gift from TVXQ” – Ngày 06/09/2004

“The Christmas Gift from TVXQ” là Mini Album đầu tay của nhóm nhạc TVXQ được phát hành ngày 06/09/2004 bởi công ty SM Entertainment. Album gồm phiên bản tiếng Hàn và tiếng Anh của các bài hát giáng sinh phổ biến, trong đó có phiên bản làm lại ca khúc “Magic Castle” của nhóm The Classic. Album này còn mang âm hưởng Giáng sinh theo hướng soạn nhạc âm thanh mộc và giao hưởng tổng hợp cùng hòa âm các giọng hát theo phong cách hợp xướng gồm một phiên bản Acappella Giáng sinh. “The Christmas Gift from TVXQ” được phát hành chỉ sau hai tháng khi Album đầu tay “Tri-Angle” ra mắt. Vào tháng 09/2004, Album bán được 68.888 bản và tính đến năm 2012, tổng lượng bán đĩa đạt khoảng 109.000 bản. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

Mini Album: “The Christmas Gift from TVXQ” - Ngày 06/09/2004Mini Album: “The Christmas Gift from TVXQ” – Ngày 06/09/2004

3. Album: “Tri-Angle” – Ngày 13/10/2004

“Tri-Angle” là Album phòng thu đầu tay của nhóm nhạc TVXQ được phát hành thông qua công ty SM Entertainment vào ngày 13/10/2004. Một số đĩa đơn đã được phát hành như một phần của Album gồm “Hug”, “The Way U Are”, “I Believe” và ca khúc chủ đề “Tri-Angle” hợp tác với BoA và The TRAX. Album đã bán được 242.540 bản và trở thành Album thành công thứ 08 trong năm tại Hàn Quốc. Đĩa đơn đầu tiên “Hug” còn ra mắt với 169.532 bản bán ra vào năm 2004 và đạt vị trí thứ 04 trên bảng xếp hạng hàng tháng toàn quốc. Tính đến năm 2014, đĩa đơn này đã bán được 242.890 bản. 

Album: “Tri-Angle” - Ngày 13/10/2004Album: “Tri-Angle” – Ngày 13/10/2004

Vào tháng 11/2004, phiên bản tiếng Nhật của “Hug” được Rhythm Zone phát hành tại Nhật Bản và bán được 4.710 bản. Đĩa đơn thứ hai tên “The Way U Are” ra mắt ở vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng quốc gia và bán được 214.069 bản sau khi phát hành. Đến cuối năm 2004, đĩa đơn đã bán được 300.226 bản. Đĩa đơn chủ đề cuối cùng của Album tên “Tri-Angle” sử dụng mẫu từ Bản giao hưởng số 40 cung G thứ của Mozart. Đĩa đơn còn có sự góp giọng của BoA và ban nhạc Rock TRAX nhưng không được phát hành dưới dạng đĩa đơn. Album “Tri-Angle” đã bán được khoảng 309.000 bản tính đến năm 2011. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

4. Đĩa đơn: “Stay with Me Tonight” – Ngày 27/04/2005

“Stay with Me Tonight” là đĩa đơn tiếng Nhật đầu tay của nhóm nhạc TVXQ nằm trong Album tiếng Nhật đầu tay “Heart, Mind and Soul” (2006) được phát hành vào ngày 27/04/2005 bởi Rhythm Zone. Đĩa đơn này được viết bởi Kei Haneoka và được dàn dựng bởi Maestro T. Taishi Fukuyama cung cấp phần hòa âm nhạc cụ và Masaya Wada trình diễn giọng hát nền. Sau khi phát hành, “Stay with Me Tonight” đã đạt vị trí thứ 37 trên Oricon Singles Chart và bán được 10.116 bản. Bài hát còn được sử dụng làm nhạc kết thúc cho bộ phim truyền hình “Kusano Kid (草野☆キッド)”. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

Đĩa đơn: “Stay with Me Tonight” - Ngày 27/04/2005Đĩa đơn: “Stay with Me Tonight” – Ngày 27/04/2005

5. Đĩa đơn: “Somebody to Love” – Ngày 13/07/2005

“Somebody To Love” là đĩa đơn thứ hai của nhóm TVXQ phát hành ngày 13/07/2005 bởi Rhythm Zone. Đĩa đơn này được sử dụng làm nhạc nền kết thúc cho chương trình “Yarisugi Koji (やりすぎコージー?)” của đài TV Tokyo. Sau khi phát hành, “Somebody To Love” đạt vị trí thứ 14 trên Oricon. Màn ra mắt của nhóm tại Nhật Bản không thành công như ban quản lý của họ mong đợi và nhóm cho biết những tháng đầu tiên ở Nhật Bản rất khó khăn. Để quảng bá đĩa đơn của mình, nhóm cũng đã biểu diễn trong chuyến lưu diễn hòa nhạc mùa hè A-Nation hàng năm của Avex vào tháng 08/2005. Đây là lễ hội âm nhạc đầu tiên của nhóm tại Nhật Bản. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

Đĩa đơn: “Somebody to Love” - Ngày 13/07/2005Đĩa đơn: “Somebody to Love” – Ngày 13/07/2005

6. Album: “Rising Sun” – Ngày 12/09/2005

“Rising Sun” là Album phòng thu tiếng Hàn thứ hai của nhóm nhạc TVXQ được phát hành thông qua công ty SM Entertainment vào ngày 12/09/2005. Các nhạc sĩ gồm Yoo Young-jin, Kenzie, Hwang Sung Je và Jamie Jones của All-4-One đã tham gia sáng tác và sản xuất Album. Về mặt âm nhạc, “Rising Sun” chủ yếu là một Album nhạc Pop nhưng cũng gồm các bài hát sử dụng các phong cách như Hip-Hop, Rock, Teen Pop và Ballad. Còn thành công về mặt thương mại, “Rising Sun” ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng thu âm hàng tháng của Hàn Quốc do Hiệp hội Công nghiệp Âm nhạc Hàn Quốc (MIAK) biên soạn.

Album: “Rising Sun” - Ngày 12/09/2005

Album: “Rising Sun” – Ngày 12/09/2005

Đây còn là Album bán chạy thứ 04 trong năm 2005 khi bán được hơn 222.000 bản. “Rising Sun” đã ghi nhận doanh số hơn 290.000 bản vào tháng 05/2008 theo MIAK. Album này mang lại các đĩa đơn “Rising Sun” và “Tonight” cùng với các Video âm nhạc đi kèm được sản xuất cho cả hai bài hát. “Rising Sun” đã giành giải Video âm nhạc được yêu thích nhất (Daesang) tại Liên hoan Video âm nhạc Mnet KM năm 2005. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

7. Đĩa đơn: “My Destiny” – Ngày 02/11/2005

“My Destiny” là đĩa đơn tiếng Nhật thứ ba của nhóm TVXQ phát hành ngày 02/11/2005 bởi Rhythm Zone. Đĩa  đơn này được sử dụng làm nhạc nền kết thúc của chương trình “Monday Entertainment (月曜エンタぁテイメント?)”. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

Đĩa đơn: “My Destiny” - Ngày 02/11/2005Đĩa đơn: “My Destiny” – Ngày 02/11/2005

8. Đĩa đơn kết hợp: “Show Me Your Love” – Ngày 15/12/2005

“Show Me Your Love” là đĩa đơn duy nhất của TVXQ và Super Junior phát hành vào 15/12/2005. Đĩa đơn đặc biệt này đã xếp hạng nhất trên bảng xếp hạng MIAK K-pop và bán được 49.945 bản vào cuối năm. Đĩa đơn do Kenzie sáng tác phần lời bài hát, ngoài ra cô còn thực hiện phần sản xuất kiêm phối khí cho ca khúc nói trên và những lời Rap cho “Show Me Your Love” do Yoochun, Heechul, Shindong và Eunhyuk thực hiện. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

Đĩa đơn kết hợp: “Show Me Your Love” - Ngày 15/12/2005Đĩa đơn kết hợp: “Show Me Your Love” – Ngày 15/12/2005

9. Đĩa đơn: “Asu wa Kuru Kara” (明日は来るから)” – Ngày 08/03/2006

“Asu Wa Kuru Kara (明日は来るから)” là đĩa đơn tiếng Nhật thứ 04 của nhóm TVXQ được phát hành ngày 08/03/2006 bởi Rhythm Zone. Đĩa đơn này đã được chọn làm nhạc nền kết thúc thứ 17 của Anime “One Piece”. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

Đĩa đơn: “Asu wa Kuru Kara" (明日は来るから)” - Ngày 08/03/2006Đĩa đơn: “Asu wa Kuru Kara” (明日は来るから)” – Ngày 08/03/2006

10. Album: “Heart, Mind and Soul” – Ngày 22/03/2006

“Heart, Mind and Soul” là Album phòng thu tiếng Nhật đầu tay và thứ ba tổng thể của nhóm nhạc TVXQ được phát hành vào ngày 22/03/2006 bởi Rhythm Zone. Album này được phát hành với hai phiên bản vật lý là phiên bản chỉ có CD gồm các bản nhạc thưởng và phiên bản CD+DVD gồm danh sách bài hát của PV. Sau khi phát hành, “Heart, Mind and Soul” đã ra mắt ở vị trí thứ 22 trên Oricon Albums Chart và bán được 18.000 bản. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

11. Đĩa đơn: “Begin” – Ngày 21/06/2006

“Begin” là đĩa đơn tiếng Nhật thứ 06 của nhóm TVXQ được phát hành ngày 21/06/2006 bởi Rhythm zone. Đĩa đơn này được sử dụng làm nhạc nền kết thúc của bộ phim truyền hình Hàn Quốc “I’m Sorry, I Love You” khi phát sóng tại Nhật Bản. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

Đĩa đơn: “Begin” - Ngày 21/06/2006Đĩa đơn: “Begin” – Ngày 21/06/2006

12. Đĩa đơn: “Sky” – Ngày 16/08/2006

“Sky” là đĩa đơn tiếng Nhật thứ 07 của nhóm TVXQ được phát hành ngày 16/08/2006 bởi Rhythm Zone. Đĩa đơn này được sử dụng làm nhạc nền cho quảng cáo “Baskin Robbins” và “music.jp”. Bài hát thứ hai ra mắt ở vị trí thứ 06 trên Oricon và trở thành đĩa đơn đầu tiên của nhóm lọt vào Top 10 tại Nhật Bản. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

Đĩa đơn: “Sky” - Ngày 16/08/2006Đĩa đơn: “Sky” – Ngày 16/08/2006

13. Album: “O-Jung.Ban.Hap.” – Ngày 29/09/2006

“O-Jung.Ban.Hap.” hay còn được gọi là “O-Union” hoặc chỉ “O” là Album phòng thu tiếng Hàn thứ ba và thứ 04 tổng thể của nhóm nhạc TVXQ được phát hành thông qua SM Entertainment vào ngày 29/09/2006. Trong một năm mà doanh số bán nhạc Hàn Quốc sụt giảm, đây là Album bán chạy nhất tại Hàn Quốc năm 2006 và giúp nhóm giành được nhiều giải thưởng nổi bật tại Hàn Quốc. Album nằm trong Top 50 trong suốt năm 2007 và bán được hơn 480.000 bản tại Hàn Quốc vào năm 2022. Tên Album “O-Jung.Ban.Hap.” dịch theo nghĩa đen là “O-Justice.Opposition” dựa trên lý thuyết về luận đề, phản đề và tổng hợp của Georg Wilhelm Friedrich Hegel.

Đĩa đơn chủ đạo cùng tên của Album có lời bài hát đề cập đến xung đột toàn cầu với lời cầu xin hòa bình và phản kháng. Album có sự cân bằng giữa các bài hát có nhịp độ nhanh và Ballad. Sau khi phát hành, “O-Jung.Ban.Hap.” lọt vào bảng xếp hạng Hàn Quốc ở vị trí số một và trở thành đĩa hát bán chạy nhất năm 2006 sau một tháng phát hành. Thành công của Album đã mang lại cho nhóm 04 giải thưởng lớn đáng giá trong năm 2006. Tại M.net “KM Music Festival”, TVXQ đã nhận được 04 giải thưởng gồm “Nghệ sĩ của năm” và “Nhóm nhạc xuất sắc nhất”. 

Album: “O-Jung.Ban.Hap.” - Ngày 29/09/2006Album: “O-Jung.Ban.Hap.” – Ngày 29/09/2006

Nhóm cũng đã giành được cả ba đề cử tại Seoul Music Awards lần thứ 16 và tại Golden Disk Awards lần thứ 21 với “O-Jung.Ban.Hap.” đã giành giải “Album của năm”, giải thưởng lớn của buổi lễ. TVXQ còn mang về những giải thưởng lớn nhất tại SBS “Gayo Daejeon”. Thành công quốc tế của Album đã mang lại cho nhóm giải thưởng đầu tiên tại Nhật Bản với giải “Bess Buzz Asia” tại Hàn Quốc tại MTV Video Music Awards Japan. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

14. Đĩa đơn: “Miss You / ‘O’-Sei-Han-Gō” – Ngaỳ 08/11/2006

“Miss You / ‘O’-Sei-Han-Gō” là đĩa đơn tiếng Nhật thứ 08 và là đĩa đơn A-side kép thứ hai của nhóm TVXQ được phát hành vào ngày 08/11/2006 với hai phiên bản gồm chỉ CD và phiên bản CD+DVD. Đĩa đơn này đã trở thành đĩa đơn Top 3 đầu tiên của nhóm trên Orico. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

Đĩa đơn: “Miss You / 'O'-Sei-Han-Gō” - Ngaỳ 08/11/2006Đĩa đơn: “Miss You / ‘O’-Sei-Han-Gō” – Ngaỳ 08/11/2006

15. Album: “Five in the Black” – Ngày 14/03/2007

“Five in the Black” là Album phòng thu tiếng Nhật thứ hai của nhóm TVXQ được phát hành ngày 14/03/2007 bởi Rhythm Zone. Album được phát hành dưới hai phiên bản là CD only và CD+DVD gồm các PV được thêm. Sau khi phát hành, “Five in the Black” còn ra mắt ở vị trí thứ 10 trên Oricon với gần 27.000 bản được bán ra trong tuần đầu tiên. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

Album: “Five in the Black” - Ngày 14/03/2007Album: “Five in the Black” – Ngày 14/03/2007

16. Đĩa đơn: “Purple Line” – Ngày 15/01/2008

“Purple Line” là đĩa đơn tiếng Nhật thứ 16 của nhóm TVXQ được viết bởi nhà soạn nhạc Hàn Quốc là người đã tạo nên những Hit lớn nhất của nhóm tại Hàn Quốc như “Rising Sun” và “O-Jung.Ban.Hap”. “Purple Line” trở thành đĩa đơn tiếng Nhật đầu tiên của nhóm được vinh danh đạt vị trí số một trên bảng xếp hạng doanh thu hàng tuần của Oricon tại Nhật Bản. Từ đó giúp nhóm trở thành nhóm nhạc nam hoặc nhóm nhạc nam nước ngoài đầu tiên đứng đầu bảng xếp hạng Nhật Bản và là nghệ sĩ Hàn Quốc thứ hai sau BoA làm được điều này. 

Đĩa đơn: “Purple Line” - Ngày 15/01/2008Đĩa đơn: “Purple Line” – Ngày 15/01/2008

“Purple Line” là đĩa đơn đầu tiên của nhóm được phát hành bằng tiếng Nhật và được phát hành bằng tiếng Hàn dưới dạng đĩa đơn. Theo các thành viên, tên “Purple Line” ám chỉ những tia sáng mỏng manh ở đường chân trời khi mặt trời lặn. Mặc dù là đĩa đơn quán quân đầu tiên của nhóm nhưng đây không phải là đĩa đơn mạnh nhất của nhóm về mặt doanh số bán đĩa với “Break Out!” dẫn đầu ở Nhật Bản. “Purple Line” được phát hành một tuần trước Album tiếng Nhật thứ ba “T” của TVXQ và trở thành đĩa đơn đầu tiên của nhóm ra mắt ở vị trí số một trên Oricon. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

17. Album: “T” – Ngày 22/01/2008

“T” là Album phòng thu tiếng Nhật thứ ba và thứ 06 tổng thể của nhóm nhạc TVXQ được phát hành vào ngày 22/01/2008 bởi Rhythm Zone. Sau khi phát hành, Album xếp ở vị trí thứ 04 trên bảng xếp hạng Oricon hàng tuần. Sự cạnh tranh lớn nhất về doanh số bán Album là với “Zard request Best: Beautiful Memory” của Zard là Album cuối cùng sau cái chết của giọng ca chính Izumi Sakai vào năm 2007. Theo các thành viên, chữ “T” của Album là viết tắt của một số thứ như “Tohoshinki”, “Title”, Album “Third”, “Top” và “Try”. Tên “T” cũng có thể là viết tắt của “Trick/Trust” và “Teamwork” của nhóm. Một tuần trước khi phát hành Album, đĩa đơn “Purple Line” đã ra mắt và đạt vị trí số một trong bảng xếp hạng doanh thu hàng tuần của Oricon.

Album: “T” - Ngày 22/01/2008Album: “T” – Ngày 22/01/2008

Ban quản lý đã thực hiện một chiến lược khác để quảng bá Album bằng cách chia các thành viên thành các nhóm đi du lịch riêng đến các thành phố khác nhau ở Nhật Bản trong một tuần, xuất hiện trên các chương trình Radio và chương trình truyền hình. Bài hát “Kiss したまま、さよな” cũng được sáng tác và viết lời đặc biệt bởi thành viên Micky Yoochun và Hero JaeJoon. Ca khúc “Trick” là bài hát được tổng hợp từ 05 ca khúc phát hành sau Album và mỗi ca khúc dành riêng cho một thành viên riêng biệt. Chữ cái đầu tiên trong 05  đĩa đơn tiếp theo đánh vần cái tên “Trick”. “T” đứng ở vị trí thứ 04 và bán được hơn 52.000 bản. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

18. Đĩa đơn: “Beautiful You / Sennen Koi Uta” – Ngày 23/04/2008

“Beautiful You / Sennen Koi Uta” là đĩa đơn tiếng Nhật thứ 22 của nhóm TVXQ phát hành vào ngày 23/04/2008 ngay trước khi kết thúc chuyến lưu diễn Nhật Bản của Album “T”. Album còn được dùng làm nhạc nền mở đầu cho một bộ phim truyền hình Hàn Quốc sau đó được phát sóng tại Nhật Bản tên “The Legend (太王四神記)”. Oricon News còn dự đoán rằng việc phát hành liên tiếp các Album đơn trước đó và sự nổi tiếng của loạt phim truyền hình cổ trang được kỳ vọng sẽ thúc đẩy doanh số bán đĩa đơn mới nhất. 

Đĩa đơn: “Beautiful You / Sennen Koi Uta” - Ngày 23/04/2008Đĩa đơn: “Beautiful You / Sennen Koi Uta” – Ngày 23/04/2008

“Beautiful You / Sennen Koi Uta” là đĩa đơn quán quân thứ hai của nhóm trên Bảng xếp hạng Oricon hàng tuần. TVXQ một lần nữa viết nên lịch sử trong ngành công nghiệp âm nhạc Nhật Bản khi trở thành nghệ sĩ nước ngoài thứ hai chỉ sau Ou Yang Fei Fei có hai lần đứng đầu bảng xếp hạng. Theo Oricon, TVXQ cũng đã kế nhiệm vị trí của Ou Yang Fei Fei sau 24 năm 05 tháng. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

19. Đĩa đơn: “Dōshite Kimi o Suki ni Natte Shimattandarō?” (どうして君を好きになってしまったんだろう?) – Ngày 16/07/2008

“Dōshite Kimi o Suki ni Natte Shimattandarō? ” (どうして君を好きになってしまったんだろう?)  là đĩa đơn tiếng Nhật thứ 23 của nhóm TVXQ được phát hành vào ngày 16/07/2008. Khoảng hai tháng trước khi bài hát được phát hành chính thức, một bản ghi âm bị rò rỉ đã thu về nhiều lượt truy cập trên Internet. Vào ngày 22/07:2008, TVXQ trở thành nghệ sĩ Châu Á không phải người Nhật đầu tiên có ba bản Hit quán quân trên bảng xếp hạng đĩa đơn Oricon hàng tuần.

Đĩa đơn: “Dōshite Kimi o Suki ni Natte Shimattandarō?” (どうして君を好きになってしまったんだろう?) - Ngày 16/07/2008Đĩa đơn: “Dōshite Kimi o Suki ni Natte Shimattandarō?” (どうして君を好きになってしまったんだろう?) – Ngày 16/07/2008

Ngoài ra, đĩa đơn “Dōshite Kimi o Suki ni Natte Shimattandarō?” còn đạt vị trí số một với doanh số hàng tuần là 68.417 bản. Sau khi TVXQ được mời và biểu diễn trong lễ hội âm nhạc cuối năm danh giá của Nhật Bản “Kōhaku Uta Gassen” thì doanh thu của nhóm đã tăng vọt trở lại vào năm 2009 và sự quan tâm đến video âm nhạc trên các trang phát trực tuyến từ người xem Nhật Bản. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

20. Album: “Mirotic” – Ngày 26/09/2008

“Mirotic” là Album phòng thu tiếng Hàn thứ 04 và thứ 07 tổng thể của nhóm nhạc TVXQ được phát hành vào ngày 26/09/2008 bởi công ty SM Entertainment. Đây cũng là Album tiếng Hàn cuối cùng của nhóm có sự góp mặt của các thành viên JaeJoong, Yoochun và Junsu. Album này là một bước đột phá lớn về mặt thương mại và là Album thành công nhất của TVXQ cho đến nay. “Mirotic” bán chạy nhất năm 2008 và đã đứng đầu bảng xếp hạng Hanteo khi bán được 110.000 Album trong một tuần cũng như lập kỷ lục về doanh số một tuần tại Hàn Quốc trên bảng xếp hạng đó. 

Album: “Mirotic” - Ngày 26/09/2008Album: “Mirotic” – Ngày 26/09/2008

Phiên bản A của “Mirotic” đã bán được hơn 208.000 bản trong một tháng và doanh số tích lũy đã vượt qua 500.000 bản sau 109 ngày kể từ khi phát hành. “Mirotic” là Album tiếng Hàn đầu tiên sau 04 năm kể từ Album “7th Issue” năm 2004 của Seo Taiji phá vỡ doanh số 500.000 bản. Album này đã bán được hơn 594.000 bản tại Hàn Quốc vào năm 2022. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

21. Đĩa đơn:  “Bolero / Kiss the Baby Sky / Wasurenaide” – Ngày 21/01/2009

“Bolero / Kiss the Baby Sky / Wasurenaide” là đĩa đơn tiếng Nhật thứ 25 của nhóm TVXQ được phát hành ngày 21/01/2009. Đây cũng là bài hát chủ đề cho bộ phim Nhật Bản “Subaru (昴)”. Bộ phim này được đặt theo tên của diễn viên múa ba lê Subaru được phát hành vào ngày 20/03/2009. 

Đĩa đơn:  “Bolero / Kiss the Baby Sky / Wasurenaide” - Ngày 21/01/2009Đĩa đơn:  “Bolero / Kiss the Baby Sky / Wasurenaide” – Ngày 21/01/2009

TVXQ cũng xuất hiện lần đầu trên Subaru. Các thành viên của nhóm còn xuất hiện trong một cảnh trong đó nhân vật của Meisa Kuroki đến thăm một quán Bar và  biểu diễn trên sân khấu trong cảnh quay. Đến đầu tháng 02/2009, đĩa đơn này được Hiệp hội Kỷ lục Nhật Bản công bố nhận được Chứng nhận Đĩa Bạch kim vào ngày 10/02/2009 vì đạt doanh số 101.861 bản. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

22. Album: “The Secret Code” – Ngày 25/03/2009

“The Secret Code” là Album phòng thu tiếng Nhật thứ 04 và thứ 08 tổng thể của nhóm nhạc TVXQ được phát hành vào ngày 25/03/2009 bởi Rhythm Zone. Sau khi phát hành, Album ra mắt ở vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng Oricon hàng tuần. Đây còn là Album phòng thu gốc cuối cùng của TVXQ có sự góp mặt của các thành viên Jaejoong, Yoochun và Junsu. Tại Nhật Bản, “The Secret Code” đã ra mắt ở vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng Oricon hàng ngày bán được gần 83.000 bản. 

Album: “The Secret Code” - Ngày 25/03/2009Album: “The Secret Code” – Ngày 25/03/2009

Trên bảng xếp hạng hàng tuần, Album này chiếm vị trí thứ hai khi bán được hơn 157.900 bản sau ca sĩ nhạc Pop Ayumi Hamasaki ‘s Next Level . “The Secret Code” còn có vẻ thành công hơn ở Đài Loan. Trên bảng xếp hạng J-Pop và Combo, Album ra mắt ở vị trí số một mang về 51,1% và 12,09% doanh thu trên bảng xếp hạng tương ứng. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

23. Đĩa đơn: “Break Out!” – Ngày 27/01/2010

“Break Out!” là đĩa đơn tiếng Nhật thứ 29 của nhóm TVXQ được phát hành tại Nhật Bản vào ngày 27/01/2010 bởi nhãn hiệu phụ Rhythm Zone của Avex Group. Sau đó, đĩa đơn đã được đưa vào Album tổng hợp tiếng Nhật đầu tiên của nhóm “Best Selection 2010”. “Break Out!” còn được sử dụng làm bộ phim truyền hình “Tomehane!”. Sau khi phát hành, đĩa đơn đứng đầu bảng xếp hạng Oricon hàng ngày với 169.842 bản được bán ra. Tổng cộng đĩa đơn đã bán được 255.917 bản và đứng đầu bảng xếp hạng hàng tháng. “Break Out!” cũng phá kỷ lục trước đó về đĩa đơn bán được nhiều nhất trong tuần đầu tiên phát hành do Elton John nắm giữ. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

Đĩa đơn: “Break Out!” - Ngày 27/01/2010Đĩa đơn: “Break Out!” – Ngày 27/01/2010

24. Album: “Best Selection 2010” – Ngày 17/02/2010

“Best Selection 2010” là Album tiếng Nhật hay nhất đầu tiên của nhóm nhạc TVXQ được phát hành tại Nhật Bản vào ngày 17/02/2010 bởi Rhythm Zone. Album này gồm các bài hát trong Album “Heart, Mind and Soul” (2006), “Five in the Black” (2007), “T” (2008) và “The Secret Code” (2009) của nhóm. Album cũng có 04 đĩa đơn mới và hai trong số đó được chứng nhận bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản (RIAJ). “Best Selection 2010” là Album cuối cùng được nhóm phát hành với đội hình ban đầu gồm 05 thành viên. Ba phiên bản của Album đã có sẵn gồm phiên bản 2-CD+DVD, phiên bản CD+DVD và phiên bản chỉ CD. Đây còn là Album đầu tiên của nhóm đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Oricon Albums Chart và là Album đầu tiên của một ban nhạc nước ngoài có doanh số tuần đầu tiên đạt 400.000 bản tại Nhật Bản. 

“Best Selection 2010” đã được RIAJ chứng nhận 2× Bạch kim và là Album bán chạy nhất trong sự nghiệp của nhóm. Đây cũng là Album thành công nhất bán chạy nhất của một nghệ sĩ nước ngoài tại Nhật Bản. Sau khi phát hành, “Best Selection 2010” đã ra mắt ở vị trí số một trên Bảng xếp hạng Album hàng ngày của Oricon và bán được hơn 228.000 bản trong ngày đầu tiên. Album duy trì vị trí đứng đầu Bảng xếp hạng hàng ngày trong bảy ngày liên tiếp. Ngoài ra, “Best Selection 2010” còn đứng ở vị trí số một trên Bảng xếp hạng Album hàng tuần của Oricon với tổng doanh số bán ra là 412.861. “Best Selection 2010” đã trở thành Album quán quân đầu tiên của nhóm tại Nhật Bản. 

Album: “Best Selection 2010” - Ngày 17/02/2010Album: “Best Selection 2010” – Ngày 17/02/2010

Điều này giúp TVXQ phá kỷ lục 14 năm về doanh số tuần đầu tiên cao nhất của một nhóm nhạc nước ngoài trong nước. Kỷ lục của nhóm đã bị phá vỡ 10 năm sau vào năm 2020 bởi nhóm nhạc Hàn Quốc BTS đã bán được hơn 564.000 bản Album phòng thu tiếng Nhật thứ ba “Map of the Soul: 7 – The Journey” trong tuần đầu tiên phát hành. Vào ngày 11/03/2010, “Best Selection 2010” đã được chứng nhận Bạch kim kép bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản (RIAJ) vì đã bán được hơn 500.000 bản. Oricon công bố Bảng xếp hạng album hàng năm năm 2010 và “Best Selection 2010” đứng thứ bảy trong danh sách với tổng doanh số là 569.530 bản vào ngày 20/12/2010. 

Từ đó trở thành Album bán chạy nhất của một nhóm nhạc nước ngoài vào thời điểm đó. Chỉ sau hai ngày phát hành tại thị trường Philippine, “Best Selection 2010” cũng đã đứng ở vị trí số một trong Bảng xếp hạng Album tổng thể & quốc tế của Astrovision và Astroplus. Đây là Album quán quân đầu tiên của TVXQ trong nước. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

25. Album: “Complete Set Limited Box” – Ngày 30/06/2010

“Complete Set Limited Box” là một Album tổng hợp của nhóm nhạc TVXQ và là một tập hợp hoàn chỉnh của hai Album tổng hợp nữa được phát hành bởi Rhythm Zone vào ngày 30/06/2010 chỉ hai tháng sau khi 3 thành viên Jaejoong, Yoochun và Junsu rời khỏi nhóm. Album thứ nhất trong tập hợp này tên “Complete: Single A-Side Collection” là tuyển tập những ca khúc A-side được nhóm phát hành kể từ khi ra mắt vào tháng 04/2005. Album còn lại tên “Single B-Side Collection” gồm 12 bài nhạc B-side phổ biến phát hành trong những năm hoạt động.

Album: “Complete Set Limited Box” - Ngày 30/06/2010Album: “Complete Set Limited Box” – Ngày 30/06/2010

Cả hai Album này đều được phát hành chung một phiên bản duy nhất “Complete Set Limited Box” cũng được phát hành ngày 30/06/2010. Phiên bản giới hạn này có kèm theo 1.000 miếng ghép hình. “Complete: Single A-Side Collection” khởi đầu ở vị trí thứ ba trên Oricon Albums Chart với 106.265 bản được bán ra trong vòng 16 tuần. Cộng với việc tiêu thụ thêm 100.000 bản ra thị trường quốc tế, Album đã được chứng nhận Gold vào tháng 06/2010. Còn “Single B-Side Collection” cũng đứng vị trí thứ 04 trên bảng xếp hạng với số lượng bán được là 100.729 bản trong 13 tuần. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

26. Album: “Keep Your Head Down” – Ngày 05/01/2011

“Keep Your Head Down” là Album phòng thu tiếng Hàn thứ 05 và thứ 09 tổng thể của nhóm nhạc TVXQ được phát hành vào ngày 05/01/2011 bởi công ty SM Entertainment. Việc thu âm và viết Album gần như bắt đầu vào mùa hè năm 2009 nhưng việc sản xuất đầy đủ chỉ bắt đầu vào tháng 08/2010 sau khi U-Know và Changmin ra mắt buổi biểu diễn đầu tiên với tư cách là một bộ đôi tại buổi hòa nhạc “SM Town Live ’10 World Tour” ở Seoul, Hàn Quốc. Album được các nhà phê bình mô tả là dữ dội, đen tối và mạnh mẽ do ảnh hưởng của SMP.  Đây là một thể loại thử nghiệm được xác định bằng cách pha trộn các phong cách của dàn nhạc Pop, Rock và R&B đương đại với nhịp điệu Hip-Hop. 

Từ đó, nhằm tạo ra sự hấp dẫn cùng những bản nhạc nhịp nhàng cho phép biểu diễn vũ đạo rất mạnh mẽ. “Keep Your Head Down” được phát hành với hai phiên bản khác nhau gồm hai đĩa đơn quảng cáo với một đĩa đơn chính “Keep Your Head Down”. Về mặt ca từ, Album khám phá những chủ đề đen tối về các mối quan hệ cùng sự phản bội và sự trao quyền cho bản thân. Tại Hàn Quốc, Album đã ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng Gaon Albums Chart trong tuần ngày 08/01/2011 và duy trì vị trí số một trong tuần thứ hai. 

Album: “Keep Your Head Down” - Ngày 05/01/2011Album: “Keep Your Head Down” – Ngày 05/01/2011

Đến cuối tháng 01/2011, Gaon báo cáo rằng đã có 230.227 bản được xuất xưởng. Đến cuối năm 2011, 263.412 bản Album đã được bán chỉ riêng ở Hàn Quốc và trở thành Album bán chạy thứ ba trong năm 2011. Trước “U Go” ra mắt ở vị trí số một trên Gaon Albums Chart và Hanteo Chart của Hàn Quốc, “Keep Your Head Down” bán được 55.243 bản vào tháng 07/2011. Ngoài ra, “Before U Go” đã bán được 60.709 bản. Tập hợp Album đã bán được hơn 324.000 bản tại Hàn Quốc và 89.000 bản tại Nhật Bản. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

27. Album: “Tone” – Ngày 28/09/2011

“Tone” là Album phòng thu tiếng Nhật thứ 05 và thứ 10 tổng thể của nhóm nhạc TVXQ được phát hành vào ngày 28/09/2011 bởi Avex Trax. Đây là Album tiếng Nhật đầu tiên của nhóm kể từ khi trở thành Duo với các thành viên YunHo và Changmin. “Tone” được phát hành với ba phiên bản vật lý gồm phiên bản A, phiên bản CD+DVD có video âm nhạc, phiên bản B, một phiên bản CD+DVD khác có phim quay và Phiên bản C phiên bản chỉ có CD với bản nhạc thưởng. 

Quá trình sáng tác cho Album bắt đầu vào năm 2009 và quá trình sản xuất đầy đủ bắt đầu vào đầu năm 2011. Về mặt âm nhạc, “Tone” là một Album nhạc Pop chủ yếu bao gồm nhịp độ nhanh, nhịp độ trung bình và các bản Ballad mang âm hưởng R&B, Electropop và Rock. Sau khi phát hành, Album đã nhận được những đánh giá tích cực khi phát hành và một số nhà phê bình ca ngợi đây là một trong những Album tiếng Nhật gắn kết nhất của nhóm cho đến nay. 

Album: “Tone” - Ngày 28/0/2011Album: “Tone” – Ngày 28/0/2011

“Tone” là một thành công lớn về mặt thương mại khi là Album thứ hai của nhóm nhưng là bản phát hành gốc đầu tiên đứng đầu Bảng xếp hạng Album Oricon và bán được 205.000 bản trong tuần đầu tiên phát hành. Album còn nhận được chứng nhận bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản (RIAJ) hai tuần sau đó và cuối cùng đã trở thành Album phòng thu gốc tiếng Nhật bán chạy nhất của nhóm với hơn 330.000 bản được bán ra. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

28. Đĩa đơn: “Still” – Ngày 14/03/2012

“Still” là đĩa đơn thứ 34 của TVXQ và là một bản Pop Ballad có nhịp độ trung bình do Shinjiroh Inoue viết lời và sản xuất. Đĩa đơn này được Avex Trax phát hành vào ngày 14/03/2012 và là đĩa đơn thứ hai trong Album phòng thu tiếng Nhật thứ 06 “Time” (2013). Đĩa đơn được phát hành thành ba phiên bản gồm phiên bản CD+DVD, phiên bản chỉ dành cho CD và phiên bản Bigeast Board. Ca khúc B-side “One More Thing” cũng là một bản Pop Ballad được quảng cáo làm bài hát chủ đề cho bộ phim truyền hình di động “Let M: Watashi ga Anata wo Aisuru Riyuu”. 

Đĩa đơn: “Still” - Ngày 14/03/2012Đĩa đơn: “Still” – Ngày 14/03/2012

“Still” là đĩa đơn tiếng Nhật thứ 10 của nhóm ra mắt ở vị trí số một trên Oricon Singles Chart và giúp TVXQ trở thành nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên và hiện tại duy nhất tại Nhật Bản làm được điều này. Đĩa đơn đã bán được gần 139.000 bản trong tuần đầu tiên phát hành, đứng trong bảng xếp hạng trong 08 tuần và được chứng nhận vàng bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản (RIAJ) cho lô hàng trên 100.000. Ngoài ra,  “Still” còn là đĩa đơn bán chạy thứ 48 tại Nhật Bản trong năm 2012 khi bán được hơn 160.000 bản. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

29. Album: “Catch Me” – Ngày 24/09/2012

“Catch Me” là Album phòng thu tiếng Hàn thứ 06 và thứ 11 tổng thể của nhóm TVXQ được phát hành kỹ thuật số vào ngày 24/09/2012 và bản phát hành CD vật lý vào ngày 26/09/2012 bởi cong ty SM Entertainment và KMP Holdings. Album này là phần tiếp theo của Album “Keep Your Head Down” phát hành năm 2011 và cũng là Album đầu tiên của TVXQ kể từ khi trở thành nhóm nhạc có hai thành viên gồm U-Know YunHo và Max Changmin. Album gồm hai đĩa đơn chính “Catch Me” và “Humanoids”.

Album: “Catch Me” - Ngày 24/09/2012Album: “Catch Me” – Ngày 24/09/2012

Đĩa đơn sau là đĩa đơn chính trong bản Repackage “Humanoids” của “Catch Me” được phát hành vào ngày 26/11/2012. Phiên bản đóng gói lại cũng có ca khúc Dubstep “Here I Stand”. Để hỗ trợ cho Album, TVXQ đã bắt đầu chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới đầu tiên “Catch Me World Tour” bắt đầu bằng hai buổi diễn tại Olympic Gymnastics Arena ở Seoul vào tháng 11/2012. “Catch Me” còn là Album bán chạy thứ ba của Hàn Quốc trong năm 2012. Theo Gaon Chart, “Catch Me” đã bán được 259.425 bản tại Hàn Quốc tính đến tháng 03/2013 và thêm 47.181 bản tại Nhật Bản theo Oricon. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

30. Album: “Time” – Ngày 06/03/2013

“Time” là Album phòng thu tiếng Nhật thứ 06 và thứ 12 tổng thể của nhóm TVXQ được phát hành bởi Avex Trax vào ngày 06/03/2013. Album còn được phát hành thành 05 phiên bản vật lý vào mỗi phiên bản có bìa chủ đề. Về mặt âm nhạc, “Time” chủ yếu là một Album Electropop với Dubstep, nhạc Dance điện tử và ảnh hưởng của R&B. “Time” còn là Album phòng thu bán chạy nhất của nhóm khi bán được hơn 160.000 bản trong ngày đầu tiên và hơn 240.000 bản trong tuần đầu tiên phát hành. Đây cũng là Album thứ ba liên tiếp của nhóm đứng đầu bảng xếp hạng Oricon Albums Chart và Billboard Japan Top Albums. “Time” gồm 04 đĩa đơn ăn khách và tất cả đều lọt vào Top 2 trên Bảng xếp hạng hàng tuần của Oricon và bán được hơn 150.000 bản mỗi đĩa. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

Album: “Time” - Ngày 06/03/2013Album: “Time” – Ngày 06/03/2013

31. Album: “Tense” – Ngày 06/01/2014

“Tense” là Album phòng thu tiếng Hàn thứ 07 và thứ 13 tổng thể của bộ đôi TVXQ được phát hành vào ngày 06/01/2014 bởi công ty SM Entertainment. Album được quảng bá như một Album kỷ niệm 10 năm ra mắt của bộ đôi vào ngày 26/12/2013. “Tense” gồm các bài hát R&B và Pop hiện đại với các thành phần của Neo-Soul. Đĩa đơn chính của Album tên “Something” cũng có yếu tố của nhạc Swing Jazz với sự dàn dựng của ban nhạc lớn. Về mặt ca từ, Album đề cập đến các khái niệm về tình yêu, lòng dũng cảm và hy vọng.

“Tense” đã nhận được sự hoan nghênh chung từ các nhà phê bình âm nhạc cùng những người khen ngợi quá trình sản xuất gắn kết của Album và phần trình diễn giọng hát của nhóm. Tại Hàn Quốc, “Tense” đã ra mắt ở vị trí số một trên Gaon Albums Chart và mang lại cho TVXQ vị trí quán quân thứ ba liên tiếp kể từ khi thành lập bảng xếp hạng vào năm 2010. Tại Nhật Bản, Album ra mắt ở vị trí thứ 04 trên Oricon Albums Chart và trở thành Album thứ hai của bộ đôi này. Album tiếng Hàn lọt vào Top 5 của bảng xếp hạng. Theo Gaon Albums Chart, “Tense” là Album Hàn Quốc bán chạy thứ tư trong năm 2014 khi bán được 196.971 bản vật lý. 

Album: “Tense” - Ngày 06/01/2014Album: “Tense” – Ngày 06/01/2014

Bản Repackage của “Tense” tên “Spellbound” được phát hành vào ngày 27/02/2014. Bản Repackage này có ba bài hát mới được thu âm gồm cả đĩa đơn chính “Spellbound”. Bản Repackage đã bán được 61.405 bản trong hai ngày và ra mắt ở vị trí thứ hai trên Gaon Albums Chart. “Spellbound” đã bán được 110.566 bản vật lý trong năm 2014 và trở thành Album Repackage bán chạy nhất của nhóm trên bảng xếp hạng. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

32. Album: “Tree” – Ngày 05/03/2014

“Tree” là Album phòng thu tiếng Nhật thứ 07 và thứ 14 tổng thể của bộ đôi TVXQ được phát hành bởi Avex Trax vào ngày 05/03/2014. Album được phát hành dưới dạng 04 phiên bản vật lý, mỗi phiên bản có bìa chủ đề theo mùa gồm phiên bản A (Xuân/Hè) là phiên bản CD+DVD có video ca nhạc, Phiên bản B (Mùa thu) là một phiên bản CD+DVD khác có phim quay, Phiên bản C (Mùa đông) là phiên bản chỉ có CD với hai bản nhạc thưởng và Phiên bản D là phiên bản giới hạn của câu lạc bộ người hâm mộ có CD-Extra. Về mặt âm nhạc, “Tree” là một Album nhạc Pop đa dạng chịu ảnh hưởng của nhiều thể loại âm nhạc như nhạc Dance điện tử, Hip-Hop, R&B, Swing Jazz, nhạc Rock, Power Ballad và Reggae. 

Quá trình thu âm cho Album đã bắt đầu tốt đẹp trước khi ra mắt album phòng thu tiếng Nhật thứ 06 “Time” vào đầu năm 2013. “Tree” là Album thứ 04 liên tiếp của nhóm ra mắt ở vị trí số một trên Bảng xếp hạng Album Oricon và Album hàng đầu Billboard Nhật Bản khi bán được 225.000 bản trong tuần đầu tiên phát hành. Điều này còn giúp TVXQ trở thành nhóm nhạc nước ngoài đầu tiên ở Nhật Bản có ba album phòng thu liên tiếp với doanh số tuần đầu tiên trên 200.000 bản và phá vỡ kỷ lục 13 năm của Bon Jovi. 

Album: “Tree” - Ngày 05/03/2014Album: “Tree” – Ngày 05/03/2014

Chưa đầy bốn tuần sau khi phát hành, “Tree” đã nhận được chứng nhận bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản (RIAJ) cho doanh số hơn 250.000 bản. Cả 04 đĩa đơn gồm “Ocean”, “Scream”, “Very Merry Xmas” và “Hide & Seek / Something” đều thành công về mặt thương mại khi ra mắt ở vị trí thứ hai trên Oricon Singles Chart và đạt được chứng nhận vàng bởi RIAJ. Để quảng bá cho Album, TVXQ đã bắt đầu chuyến lưu diễn toàn quốc lần thứ 07 “Tree: Live Tour” 2014 từ tháng 04/2014 đến tháng 06/2014. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

33. Album: “With” – Ngày 17/12/2014

“With” là Album phòng thu tiếng Nhật thứ 08 và thứ 15 tổng thể của bộ đôi TVXQ được phát hành bởi Avex Trax vào ngày 17/12/2014. Album được phát hành với 04 phiên bản vật lý gồm Phiên bản A là CD+DVD phiên bản có video ca nhạc và biểu diễn trực tiếp, Phiên bản B là một phiên bản CD+DVD khác có phim quay, Phiên bản C là phiên bản chỉ có CD với hai bản nhạc bổ sung và Phiên bản D là phiên bản giới hạn của câu lạc bộ người hâm mộ có CD-Extra. Việc thu âm và viết cho Album gần như bắt đầu vào mùa hè năm 2013. “With” được mô tả là một Album gồm các bài hát Dance-Pop hoài cổ chịu ảnh hưởng của Disco và Jazz kèm theo nhịp trống diễu hành. 

Nội dung trữ tình của Album khám phá khái niệm chung về tình yêu và tình bạn. Sau khi phát hành, “With” đã thành công về mặt thương mại khi ra mắt ở vị trí số một trên Bảng xếp hạng Album hàng đầu Nhật Bản của Billboard và Bảng xếp hạng Album Oricon bán được 233.000 bản trong tuần đầu tiên. Từ đó giúp TVXQ trở thành nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên ở Nhật Bản đứng đầu Bảng xếp hạng Album Oricon bốn lần liên tiếp. TVXQ cũng là nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên tại Nhật Bản có 04 Album liên tiếp bán được 200.000 bản trở lên trong một tuần. Sau khi phát hành “With”, TVXQ đã trở thành nghệ sĩ âm nhạc quốc tế thứ ba sau Simon & Garfunkel và Bon Jovi đã phát hành 05 Album quán quân tại Nhật Bản. 

Album: “With” - Ngày 17/12/2014Album: “With” – Ngày 17/12/2014

Đến cuối năm 2014, “With” còn nhận được chứng nhận bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản (RIAJ) cho lô hàng hơn 250.000 bản. Album có hai đĩa đơn thành công về mặt thương mại gồm “Sweat / Answer” và “Time Works Wonders” đều ra mắt ở vị trí thứ hai trên Oricon Singles Chart và đạt được chứng nhận Vàng bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản (RIAJ). Để quảng bá cho Album, nhóm sẽ bắt đầu chuyến lưu diễn toàn quốc lần thứ hai tại “Dome, With : Live Tour 2015” từ tháng 02/2015 đến tháng 03/2015. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

34. Album: “Rise as God” – Ngày 20/07/2015

“Rise as God” là Album phòng thu tiếng Hàn không chính thức là bản phát hành thứ 08 của bộ đôi TVXQ được phát hành vào ngày 20/07/2015 bởi công ty SM Entertainment. “Rise as God” được phát hành dưới dạng một Album đặc biệt và là lần phát hành âm nhạc cuối cùng của bộ đôi trước khi tạm dừng hai năm để hoàn thành nghĩa vụ quân sự bắt buộc. Không giống như các Album trước của nhóm, “Rise as God” nhận được rất ít sự quảng bá. Tuy nhiên, Album đã nhận được đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc và ra mắt ở vị trí số một trên Gaon Album Chart khi bán được 150.000 bản vào cuối năm 2015. 

Vào ngày đầu tiên bán ra tại Hàn Quốc, Hanteo Album Charts đã báo cáo rằng “Rise as God” đứng sau “Devil” của Super Junior trong ngày đầu tiên phát hành. Album đã nhảy lên vị trí số một vào ngày thứ hai nhưng tụt xuống vị trí thứ hai vào ngày thứ ba. Album kết thúc tuần ở vị trí thứ hai, bán được khoảng 30.000 bản vật lý và trở thành doanh số tuần mở màn chậm nhất của nhóm kể từ khi ra mắt với “Tri-Angle” vào năm 2004. Trên bảng xếp hạng Album Gaon hàng tuần của Hàn Quốc, “Rise as God” còn ra mắt ở vị trí số một và trở thành quán quân thứ 04 liên tiếp của nhóm kể từ khi thành lập bảng xếp hạng vào năm 2010. Theo Gaon, “Rise as God” còn có 148.155 bản đã được xuất xưởng trong tháng đầu tiên và vượt xa Super Junior 12.000 bản. 

Album: “Rise as God” - Ngày 20/07/2015Album: “Rise as God” – Ngày 20/07/2015

Tại Nhật Bản, “Rise as God” lọt vào bảng xếp hạng Oricon Albums Chart hàng tuần ở vị trí thứ 06 với doanh số 18.093 bản nhập khẩu. Hai đĩa đơn của Album là “Champagne” và “Rise as One” không lọt vào bảng xếp hạng kỹ thuật số hàng tuần của Hàn Quốc. Tuy nhiên, hai đĩa đơn này đã đứng đầu bảng xếp hạng hàng tuần Baidu King của Trung Quốc trong tuần đầu tiên ra mắt khi lần lượt chiếm vị trí thứ nhất và thứ hai. Các bài hát khác trong Album gồm “Komplikated” của YunHo, “Apology” của Changmin và bản song ca “Top of the World” đã lọt vào Top 10. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

35. Album: “Fine Collection: Begin Again” – Ngày 25/10/2017

“Fine Collection: Begin Again” là Album thành công thứ hai tại Nhật Bản của bộ đôi TVXQ được phát hành vào ngày 2/10/2017 thông qua Avex Trax. Album này cũng được coi như một Album bổ sung cho buổi hòa nhạc trở lại Nhật Bản của nhóm “Begin Again Tour” và là chuyến lưu diễn đầu tiên của bộ đôi kể từ khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự. Album chủ yếu có các đĩa đơn do nhóm phát hành từ năm 2011 gồm các bài hát trong Album “Tone” (2011), “Time” (2013), “Tree” (2014) và “With” (2015). Ngoài ra, Album cũng gồm ba phiên bản thu âm lại của các đĩa đơn trước đó “Begin Again” được Avex Trax công bố lần đầu tiên vào tháng 08/2017. Sau khi phát hành, Album đã rất thành công về mặt thương mại khi ra mắt ở vị trí số một trên Bảng xếp hạng Album hàng đầu Nhật Bản của Billboard và Bảng xếp hạng Album Oricon bán được 130.000 bản trong tuần đầu tiên phát hành. 

Từ đó giúp nhóm trở thành nghệ sĩ nước ngoài có nhiều Album quán quân nhất tại Nhật Bản. “Fine Collection: Begin Again” đã giành được chứng nhận vàng của Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản (RIAJ) cho lô hàng trên 100.000 bản. Theo số liệu thống kê do Oricon của Nhật Bản tổng hợp, “Fine Collection: Begin Again” còn đứng đầu Bảng xếp hạng Album Oricon hàng ngày trong ngày đầu tiên phát hành khi bán được 81.791 bản. Album đứng đầu bảng xếp hạng Oricon Albums Chart hàng ngày trong ba ngày tiếp theo khi bán được thêm 40.449 bản. Đến cuối tuần, “Fine Collection: Begin Again” đã bán được 134.447 bản và là Album quán quân trong tuần. 

Album: “Fine Collection: Begin Again” - Ngày 25/10/2017Album: “Fine Collection: Begin Again” – Ngày 25/10/2017

“Fine Collection: Begin Again” cũng đứng đầu bảng xếp hạng Billboard Japan Top Albums Chart và bảng xếp hạng Japan Hot Albums. Album đứng thứ ba trên Bảng xếp hạng tải xuống Album của Billboard Nhật Bản. “Fine Collection: Begin Again” cũng là kỷ lục thứ 06 liên tiếp của bộ đôi đứng đầu Bảng xếp hạng Album Oricon phá vỡ kỷ lục của Simon & Garfunkel và Bon Jovi với tư cách là nghệ sĩ nam nước ngoài có nhiều Album quán quân liên tiếp nhất tại Nhật Bản. Nhóm cũng là nghệ sĩ âm nhạc nước ngoài đầu tiên ở Nhật Bản 06 lần đứng đầu Bảng xếp hạng Album Oricon hàng tuần. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

36. Album: “Tomorrow” – Ngày 19/09/2018

“Tomorrow” là Album phòng thu tiếng Nhật thứ 09 của bộ đôi TVXQ được Avex Trax phát hành vào ngày 19/09/2018. Album này được phát hành với 04 phiên bản vật lý gồm Phiên bản A là phiên bản CD+Blu-ray bao gồm video âm nhạc và hậu trường, Phiên bản B là phiên bản CD+DVD có nội dung tương tự, Phiên bản C là phiên bản chỉ dành cho CD và Phiên bản D là một phiên bản giới hạn của câu lạc bộ người hâm mộ. Việc thu âm và viết cho Album gần như bắt đầu vào năm 2017 và được công bố chính thức vào ngày 01/08/2018. “Tomorrow” là Album phòng thu tiếng Nhật gốc đầu tiên của nhóm kể từ “With” năm 2014.

Album: “Tomorrow” - Ngày 19/09/2018

Sau khi phát hành, “Tomorrow” đã ra mắt ở vị trí số một trên Bảng xếp hạng album Oricon với doanh số tuần đầu tiên là 125.319 bản và trở thành Album thứ 07 của nhóm làm được điều này. Điều này cũng giúp TVXQ được xếp ngang hàng với BoA vì có nhiều Album quán quân nhất tại Nhật Bản với tư cách là nghệ sĩ nước ngoài. Nhóm tiếp tục phá kỷ lục đó một năm sau đó với việc phát hành “XV” (2019). “Tomorrow” đã rất thành công về mặt thương mại khi được chứng nhận vàng bởi Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Nhật Bản (RIAJ). Album được hỗ trợ bởi chuyến lưu diễn Nhật Bản mở rộng nhất của nhóm kể từ khi ra mắt “Tomorrow Tour” từ tháng 09/2018 đến tháng 01/2019. 

“Reboot” được phát hành dưới dạng đĩa đơn đầu tiên của Album vào ngày 20/12/2017. Đĩa đơn thứ hai của Album tên “Road” phát hành vào ngày 25/07/2018. Cả hai đĩa đơn này đều ra mắt ở vị trí thứ hai trên Oricon Singles Chart và được chứng nhận vàng bởi RIAJ. Đĩa đơn quảng cáo của “Tomorrow” là bản thu âm lại bài hát chủ đề One Piece “Asu Wa Kur Kara” được phát hành trước đó vào năm 2006. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

37. Album: “XV” – Ngày 16/10/2019

“XV” là Album phòng thu tiếng Nhật thứ 10 của bộ đôi TVXQ được phát hành vào ngày 16/10/2019 bởi Avex Trax. Album này đánh dấu kỷ niệm 15 năm ra mắt của nhóm tại Nhật Bản. Bộ đôi cũng đã thông báo về việc phát hành Album tại Lễ hội âm nhạc A-Nation mà nhóm chủ trì vào ngày 18/08/2019. “XV” được phát hành với năm phiên bản vật lý gồm một phiên bản CD tiêu chuẩn, một phiên bản CD và Blu-ray giới hạn, một CD và DVD giới hạn, phiên bản câu lạc bộ người hâm mộ độc quyền và phiên bản quà tặng đặc biệt với một CD được đóng gói trong haiphiếu cỡ LP khác nhau. 

Về mặt âm nhạc, “XV” là một Album Electropop đa dạng chịu ảnh hưởng của nhiều thể loại nhạc điện tử gồm ảnh hưởng từ Symphonic Metal, Soft Rock, Hip-Hop, Dance-Pop và R&B. Việc thu âm cho Album bắt đầu ngay trước khi ra mắt Album phòng thu tiếng Nhật “Tomorrow” vào năm 2018. “Jealous” được phát hành dưới dạng đĩa đơn chủ đạo của Album vào ngày 21/11/2018. Bài hát này ra mắt ở vị trí số một trên Bảng xếp hạng đĩa đơn Oricon và đạt vị trí thứ ba trên Billboard Japan Hot 100. Còn “Hot Hot Hot” và “Mirrors” được phát hành dưới dạng đĩa đơn đôi A-side vào ngày 31/07/2019 ra mắt ở vị trí thứ hai trên Bảng xếp hạng đĩa đơn Oricon.

Album: “XV” - Ngày 16/10/2019Album: “XV” – Ngày 16/10/2019

“XV” là Album thứ 08 của nhóm ra mắt ở vị trí số một trên bảng xếp hạng Oricon Albums Chart và lập kỷ lục mới cho một nghệ sĩ nước ngoài tại Nhật Bản. Ngoài ra, Album cũng ra mắt ở vị trí số một trên Billboard Japan Hot Albums với doanh số tuần đầu tiên là 155.000 bản. “XV” là Album đi kèm với chuyến lưu diễn toàn quốc thứ 06 của bộ đôi “XV Tour” tại Nhật Bản. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

38. Album: “Epitaph” – Ngày 16/03/2022

“Epitaph” là Mini Album tiếng Nhật đầu tiên của bộ đôi Hàn Quốc TVXQ được phát hành vào ngày 16/03/2022 bởi Avex Trax. Đây là một Album nhạc Pop với các yếu tố của Pop Rock, Dance Pop và tổng hợp. “Epitaph” được phát hành như phần tiếp theo của Mini Album Solo “Human” (2021) của Changmin và “Kimi wa Saki e Iku” (2022) của YunHo. Album cũng là bản phát hành gốc đầu tiên của bộ đôi tại Nhật Bản kể từ “XV” (2019). Ca khúc đầu tiên của Album “Epitaph (For the Future)” là đĩa đơn chính.

Album: “Epitaph” - Ngày 16/03/2022Album: “Epitaph” – Ngày 16/03/2022

Sau khi phát hành, “Epitaph” đã ra mắt ở vị trí thứ ba trên bảng xếp hạng Oricon Albums Chart và phá vỡ kỷ lục ra mắt quán quân của nhóm. Đây còn là Album có thứ hạng thấp nhất trên Oricon kể từ “T” (2008) khi ra mắt ở vị trí thứ 04. “Epitaph” cũng ra mắt ở vị trí thứ ba trên Billboard Japan Hot Albums nhưng đứng đầu Billboard Japan Download Albums với 2.402 lượt tải xuống trong tuần đầu tiên. Album đồng hành cùng “Classyc Tour” toàn quốc của TVXQ vào năm 2023 bắt đầu tại Nippon Gaishi Hall ở Nagoya vào ngày 11/02/2023 và kết thúc tại Tokyo Dome ở Tokyo vào ngày 25/06/2023. Người hâm mộ có thể thưởng thức bài hát đầy ấn tượng tại link dưới đây:

Các giải thưởng của nhóm TVXQ

Nhóm nhạc Hàn Quốc này hoạt động chủ yếu tại thị trường Nhật Bản và nhận được rất nhiều giải thưởng khác nhau như:

  • Vào năm 2008, TVXQ lần đầu tiên giành được ngôi vị Quán quân trên Bảng xếp hạng Oricon với đĩa đơn tiếng Nhật thứ 16 “Purple Line”. Thành tích này đã giúp nhóm trở thành nghệ sĩ Châu Á thứ 05 không phải người Nhật và là nhóm nhạc nước ngoài đầu tiên có đĩa đơn No.1 trên bảng xếp hạng uy tín này.
  • Nhóm cũng đã lập kỷ lục mới với đĩa đơn thứ 23 “Doushite Kimi wo Suki ni Natte Shimattan Darou?” (どうして君を好きになってしまったんだろう?). Nhóm trở thành nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên có ba đĩa đơn đứng đầu bảng xếp hạng.
  • TVXQ phát hành Album “Best Selection 2010” ở Nhật và đạt được kỷ lục mới nữa với hơn 510.000 bản tiêu thụ được trong một tháng và giành được đồng thời hai giải bạch kim vào đầu năm 2010.
  • Nhóm trở thành nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên có 12 đĩa đơn đạt ngôi vị quán quân trên Oricon và cũng là nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên tiêu thụ được hơn 200 nghìn bản trong lịch sử J-Pop phá vỡ kỷ lục của Elton John tại Nhật Bản vào năm 2012.
  • Năm 2013, TVXQ đã có một Tour diễn Five-Dome tên “Tohoshinki Live Tour 2013 Time” thu hút hơn 850.000 người hâm mộ và cuối cùng trở thành nghệ sĩ nước ngoài đầu tiên biểu diễn tại sân vận động lớn nhất Nhật Bản Nissan Stadium với hơn 72.000 vé được bán.
  • TVXQ còn là nghệ sĩ sở hữu câu lạc bộ người hâm mộ có lượng thành viên đông đảo nhất thế giới với hơn 800,000 thành viên trong FC chính thức của nhóm. Ngoài ra, TVXQ còn có FC ở Nhật Bản tên “BigEast” với khoảng hơn 170,000 thành viên và FC ở Bắc Mĩ tên “Aethiopeia”.

Nhóm nhạc TVXQ đã gặt hái được rất nhiều thành công và giải thưởng khác nhauNhóm nhạc TVXQ đã gặt hái được rất nhiều thành công và giải thưởng khác nhau

Lời kết

TVXQ là nhóm nhạc nam đình đám Hàn Quốc tập trung chủ yếu tại thị trường Nhật Bản với các sản phẩm âm nhạc chất lượng. Nhóm còn có hai thành viên vô cùng tài năng và điển trai nên được đông đảo người hâm mộ săn đón. Hy vọng bài viết trên đây của chúng tôi đã cung cấp những thông tin chuẩn xác nhất về nhóm nhạc nam này!

Câu hỏi thường gặp về nhóm TVXQ

1. TVXQ gồm bao nhiêu thành viên?

TVXQ có hai thành viên gồm U-Know và Changmin.

2. TVXQ ra mắt ngày bao nhiêu?

TVXQ ra mắt vào ngày 26/12/2003.

3. Đĩa đơn đầu tay của TVXQ tên gì?

Đĩa đơn đầu tay của TVXQ tên “Hug”.

4. Đĩa đơn “Somebody to Love” phát hành ngày bao nhiêu?

Đĩa đơn “Somebody to Love” phát hành vào ngày 13/07/2005.

5. Album “Epitaph” phát hành ngày bao nhiêu?

Album “Epitaph” phát hành vào ngày 16/03/2022.

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here

ĐĂNG KÝ HÔM NAY

CẬP NHẬT NHỮNG TIN TỨC ĐỘC QUYỀN NHANH NHẤT

TỔNG HỢP BỞI ĐỘI NGŨ TÁC GIẢ GIÀU KINH NGHIỆM

THÔNG TIN CHIA SẺ ĐƯỢC CÁC CHUYÊN GIA THẨM ĐỊNH

CUNG CẤP CÁC VIDEO TRỰC QUAN

Đọc không giới hạn những tin tức độc quyền của chúng tôi!

Bài viết liên quan

Xem thêm các bài viết